TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TÍNH KỊP THỜI CỦA BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ VẤN ĐỀ QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN

      

ThS. Nguyễn Thị Hằng

Trường Đại học Thủy Lợi

Tính kịp thời từ lâu đã được công nhận là một trong những thuộc tính định tính của các báo cáo tài chính cho mục đích chung vì nó nâng cao tính liên quan và trình bày trung thực của thông tin (Viện Kế toán Công chứng Hoa Kỳ [AICPA], 1973; Ban Nguyên tắc Kế toán [APB], 1970; FASB, Năm 1979). Vì mục đích của báo cáo doanh nghiệp là cung cấp thông tin hỗ trợ các nhà đầu tư trong việc ra quyết định của họ, nên tính kịp thời của báo cáo tài chính (FST) trở thành một trong những điều quan trọng nhất đặc điểm của thông tin kế toán tài  chính đối với nghề kế toán ( Soltani , 2002; Ezat và El- Masry , 2008).

Tính kịp thời đòi hỏi thông tin phải được cung cấp cho người sử dụng báo cáo tài chính càng nhanh càng tốt (Carslaw và Kaplan, 1991). Hơn nữa, tính kịp thời đã trở nên quan trọng do những thay đổi trong công nghệ hiện đại và phương thức kinh doanh trên toàn thế giới ( Afify , 2009). Owusu-Ansah và Leventis (2006) đã chứng minh rằng báo cáo kịp thời giúp tăng cường khả năng ra quyết định và giảm sự bất cân xứng thông tin trong thị trường.

Ngoài ra, Abdelsalam và Street (2007) đã báo cáo rằng tính kịp thời là một trong những thành phần cần thiết của thông tin tài chính đang nhận được sự quan tâm ngày càng nhiều từ các cơ quan quản lý kế toán và cơ quan niêm yết trên toàn thế giới. Do đó, các chuyên gia thị trường vốn và các cơ quan quản lý đang tập trung vào việc giảm thiểu sự chậm trễ trong việc công bố báo cáo tài chính ( Afify , 2009). Tuy nhiên, tính kịp thời không cho thấy rằng các công ty bỏ qua tính chính xác, và các công ty nên cân nhắc điều này khi công bố báo cáo tài chính của mình.

Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng giá cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi thời gian của các báo cáo tài chính (Chambers và Penman, 1984; Kross và Schroeder, 1984; Trueman , 1990). Hơn nữa, thông báo càng sớm thì phản ứng của thị trường càng tích cực (Kross và Schroeder, 1984). Do đó, thời điểm công bố báo cáo tài chính sẽ ảnh hưởng đến vốn thị trường.

Các nghiên cứu trước đây chứng minh rằng có nhiều yếu tố quyết định đến tính kịp thời của báo cáo tài chính. Ví dụ: tính kịp thời của báo cáo tài chính liên quan đến việc tin tức tốt hay xấu ( Givoly và Palmon , 1982; Kross và Schroeder, 1984; Chambers và Penman, 1984; Bagnoli và cộng sự, 2002; Begley và Fischer, 1998; Cohen và cộng sự, 2007, Brown và cộng sự, 2011, Roychowdhury và Sletten, 2012; Moradi, 2013). Tin tốt cho thấy rằng một công ty đang hoạt động tốt, điều này giúp đẩy nhanh việc phát hành báo cáo tài chính. Tuy nhiên, tin xấu chỉ ra rằng một công ty đang hoạt động kém hiệu quả, điều này làm giảm tốc độ phát hành báo cáo tài chính. Do đó, hiệu quả hoạt động của công ty là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến tính kịp thời của báo cáo tài chính.

Gần đây, nhiều nghiên cứu sâu rộng đã được thực hiện về quản trị lợi nhuận ở các nước phát triển và đang phát triển. Quản trị lợi nhuận được định nghĩa là việc người quản lý lựa chọn các chính sách kế toán hoặc các hoạt động thực tế được thực hiện để đạt được các mục tiêu thu nhập nhất định. Quản trị lợi nhuận có thể được phân loại thành hai phương pháp. Cách đầu tiên, quản trị lợi nhuận dựa trên dồn tích, liên quan đến những thay đổi trong quy trình cộng dồn. Phương pháp thứ hai, quản trị lợi nhuận thực tế (REM), liên quan đến sự sai lệch so với các hoạt động kinh doanh thông thường ( Enomoto và cộng sự, 2013).

Về vấn đề này, Enomoto et al. (2013, 3) tuyên bố rằng “Các nhà quản lý có thể quản trị lợi nhuận một cách cơ hội bằng cách thay đổi quy trình cộng dồn vì các ước tính và xét đoán khác nhau khi đi vào quá trình lập báo cáo tài chính. Do đó, ban giám đốc có thể thực hiện quản trị lợi nhuận dựa trên lũy kế sau khi kết thúc năm tài chính. Tuy nhiên, quản trị lợi nhuận dựa trên tích lũy hiển thị rõ ràng hơn so với thực tế lợi nhuận mà ban quản lý xem xét kỹ lưỡng từ kiểm toán viên và các cơ quan quản lý, trong số những người khác, và có khả năng đảo ngược trong các giai đoạn trong tương lai. " Ngoài ra, người quản lý cũng có thể thực hiện REM bằng cách thay đổi thời gian và / hoặc cấu trúc của các công ty nhiều tiền mặt lưu lượng các hoạt động, cụ thể là đầu tư và tài trợ.

Nhiều khía cạnh đã được điều tra liên quan đến quản lý thu nhập dựa trên dồn tích. Một trong những khía cạnh này là mối quan hệ giữa tính kịp thời của thông báo thu nhập và quản lý thu nhập dựa trên dồn tích. Việc trì hoãn thông báo tin tức xấu là tốt nhất để giảm tác động tiêu cực của thao tác dồn tích (Chai và Tùng, 2002). Tuy nhiên, mối liên quan giữa tính kịp thời và REM hiếm khi được nghiên cứu.

1. Tính kịp thời của thông tin kế toán

Người sử dụng thông tin tài chính yêu cầu thông tin chính xác và kịp thời để đưa ra quyết định sáng suốt ( Modugu và cộng sự, 2012). Hơn nữa, các nhà đầu tư cần thông tin kịp thời để giảm sự phổ biến bất cân xứng của thông tin tài chính và phát triển cộng đồng đầu tư nói chung ( Jaggi và Tsui , 1999). Do đó, tính hữu ích của các báo cáo công ty đã xuất bản đối với các bên liên quan phụ thuộc vào tính chính xác và kịp thời của chúng.

Theo khung khái niệm được IASB sửa đổi vào năm 2015, tính kịp thời “có nghĩa là cung cấp thông tin cho những người ra quyết định trong thời gian để có khả năng ảnh hưởng đến quyết định của họ. Nói chung, thông tin càng cũ thì càng ít hữu ích. Tuy nhiên, một số thông tin có thể tiếp tục được cập nhật trong thời gian dài sau khi kết thúc kỳ báo cáo bởi vì ”. Do đó, việc cung cấp thông tin cho những người ra quyết định trước khi họ mất khả năng ảnh hưởng đến các quyết định sẽ làm cho thông tin trở nên phù hợp. Nếu thông tin không có sẵn khi cần thiết, nó sẽ thiếu tính liên quan và không còn có thể sử dụng được.

Do đó, tính hữu ích của thông tin được công bố trong báo cáo tài chính của một công ty giảm khi độ trễ thời gian tăng lên (Hossain và Taylor, 1998). Báo cáo kịp thời ảnh hưởng đến hiệu quả của việc đánh giá và định giá cổ phiếu bằng cách giảm mức độ giao dịch nội gián, rò rỉ thông tin và tin đồn trên thị trường chứng khoán và giảm mức độ không chắc chắn của thông tin (Che-Ahmed và Abidin, 2001).

Vì những lý do này, các công ty tìm cách phát hành các thông báo thu nhập càng sớm càng tốt để duy trì tính kịp thời của thông tin. Nếu nhà đầu tư không nhận được thông tin vào thời điểm thích hợp, thông tin sẽ mất giá trị và nhà đầu tư có thể đưa ra những quyết định không hợp lý. Theo đó, Krishnan và Yang (2009) đã ghi lại xu hướng rằng các công ty đang công bố thu nhập của họ sớm hơn báo cáo kiểm toán. Tuy nhiên, xu hướng này không được áp dụng ở nhiều quốc gia, do nhà đầu tư thiếu ý thức hoặc do cơ quan quản lý cấm.

Vì tính kịp thời là một trong những đặc điểm liên quan đến chất lượng của thông tin kế toán, Enofe et al. (2013) đã chứng minh vai trò quan trọng của tính kịp thời trong việc bình đẳng tiếp cận thông tin giữa các nhà đầu tư. Họ khẳng định rằng việc không kịp thời có thể khiến một số nhóm nhà đầu tư (những nhà đầu tư có hiểu biết tốt) có vị thế tốt hơn các nhóm khác (nhà đầu tư ít hiểu biết hơn) do thông tin riêng tư thu được từ các nguồn khác ngoài báo cáo tài chính đã được công bố.

Do đó, tính kịp thời của báo cáo tài chính ảnh hưởng đến hành vi của các nhà đầu tư và thể hiện một trong những yếu tố quyết định chính đến hiệu quả của thị trường vốn. Điều này giải thích tầm quan trọng của việc kiểm tra FST, đặc biệt là ở các nước mới nổi. Các nhà đầu tư có thể coi việc phát hành sớm hay muộn các báo cáo tương ứng là một chỉ báo tốt hay xấu về hoạt động của công ty. Tuy nhiên, việc ban hành báo cáo tài chính sớm hoặc muộn có thể do hành vi của Ban Giám đốc hoặc do “quản lý theo cơ hội”. Ban Giám đốc có thể đẩy nhanh hoặc giảm tốc độ phát hành báo cáo tài chính để thực hiện các lợi ích cụ thể. Điều này ngụ ý rằng Ban Giám đốc có thể thao túng thu nhập để đạt được những lợi ích nhất định có thể thực hiện được bằng cách đẩy nhanh hoặc giảm tốc độ phát hành báo cáo tài chính.

2. Vấn đề quản trị lợi nhuận và sự ảnh hưởng tới tính kịp thời của báo cáo tài chính

Thu nhập thể hiện một trong những chỉ số quan trọng nhất về hiệu quả hoạt động của công ty đối với người đọc báo cáo tài chính, vì chúng bao gồm thông tin liên quan đến năng lực của người quản lý và xác định sự đóng góp của ban quản lý vào lợi nhuận của công ty. Do đặc điểm thông tin của thu nhập, nhiều giám đốc điều hành được khuyến khích tham gia vào quản lý thu nhập (Lee và Lu, 2015).

Quản trị lợi nhuận đã là một chủ đề nghiên cứu nóng bỏng và là một hiện tượng quốc tế phổ biến ở các nước đang phát triển và đang phát triển, vì nó đã được phát hiện và nghiên cứu ở hầu hết các thị trường vốn và hệ thống kế toán trong ba thập kỷ qua (Robb, 1998). Các tài liệu về quản trị lợi nhuận đã nghiên cứu sâu rộng về hiện tượng này, đặc biệt là trong bối cảnh kế toán tài chính, để xác định các biện pháp khuyến khích của nhà quản lý, các phương pháp được sử dụng, mức độ thay đổi thu nhập thực tế, và các tác động tiềm tàng của các chuẩn mực kế toán và quản trị công ty đối với mức độ và bản chất của thu nhập ban quản lý.

Quản trị lợi nhuận xảy ra “khi các nhà quản lý sử dụng phán đoán trong báo cáo tài chính và trong việc cấu trúc các giao dịch để thay đổi báo cáo tài chính nhằm đánh lừa một số bên liên quan về tình hình hoạt động kinh tế cơ bản của công ty hoặc ảnh hưởng đến kết quả hợp đồng phụ thuộc vào các số kế toán được báo cáo” (Healy và Wahlen , 1999 , tr. 368).

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu quản trị lợi nhuận và những người tham gia thị trường được thử thách để khám phá các nỗ lực quản trị lợi nhuận bởi vì các nhà quản lý có ý định thao túng thu nhập biết rằng họ đang hành xử theo cơ hội. Điều này, nếu bị phát hiện, có thể dẫn đến các khoản phí tài chính, danh tiếng xấu hoặc mất việc làm của họ. Do đó, các nhà quản lý lựa chọn các phương pháp quản trị lợi nhuận hiệu quả nhất mà khó phát hiện hơn.

Các nhà quản lý sử dụng nhiều phương pháp quản lý thu nhập. Một số phương pháp này được gọi là quản lý thu nhập kế toán dựa trên sự can thiệp của ban giám đốc vào quá trình lập báo cáo tài chính và các quy tắc và quy định kế toán, trong khi các phương pháp khác được gọi là REM dựa trên sự can thiệp của ban giám đốc vào hoạt động điều hành, đầu tư và tài trợ của doanh nghiệp. Trái ngược với phương pháp dồn tích, REM định nghĩa là thao tác thực hiện các hoạt động thực sự khác với các hoạt động bình thường để tăng thu nhập trong giai đoạn hiện tại bằng cách thay đổi thời gian hoặc cấu trúc của các hoạt động này ( Kuo và cộng sự, 2014)

Ví dụ về thao túng kế toán bao gồm quản lý các khoản dồn tích, thao túng các tỷ lệ nợ phải thu khó đòi hợp pháp, ước tính chủ quan về giá trị hợp lý của một số tài sản nhất định, đo lường chủ quan về vòng đời kinh tế của tài sản dài hạn và thay đổi cách phân loại các khoản mục kế toán .

Rất ít nghiên cứu chỉ ra rằng cả quản trị lợi nhuận dựa trên dồn tích và REM có thể được sử dụng đồng thời để đạt được các mục tiêu thu nhập mong muốn ( Gaver và Paterson 1999; Barton 2001; Pincus và Rajgopal 2002; Cohen và Zarowin 2010; Badertscher 2011; Zang, 2012). Tuy nhiên, một số nghiên cứu chứng minh rằng một số công ty thích thay thế REM để quản lý thu nhập dựa trên dồn tích ( Braam và cộng sự, 2015). Hơn nữa, (Chung và cộng sự, 2015) minh họa rằng các công ty có thể thích thực hiện bất kỳ hoạt động quản lý thu nhập nào dựa trên chi phí tương đối của họ. Ngoài ra, (Lin và Shen, 2015) kiểm tra sự cân bằng giữa REM và quản lý thu nhập dựa trên tích lũy liên quan đến rủi ro tín dụng. Họ nhận thấy rằng quản lý dựa trên dồn tích có liên quan tích cực đến rủi ro tín dụng, tuy nhiên, REM liên quan tiêu cực.

Zang (2012) đã đề cập rằng quản trị lợi nhuận dựa trên dồn tích và chiến lược REM khác nhau về thời gian thực hiện chúng. REM thay đổi thời gian của các giao dịch kinh doanh; do đó, nó sẽ diễn ra trong năm tài chính. Hơn nữa, kết quả của các hoạt động REM được tiết lộ ngay sau khi kết thúc năm. Do đó, nếu việc thao túng các hoạt động thực tế gây ra kết quả không như mong muốn, các nhà quản lý không thể điều chỉnh được nữa. Tuy nhiên, trong quản trị lợi nhuận dựa trên dồn tích, người quản lý có thể điều chỉnh khoản tích lũy sau khi kết thúc năm nhưng trước khi công bố thu nhập ngày.

Dựa trên lý thuyết này, có sự bất cân xứng thông tin giữa các nhà quản lý, cổ đông và người đọc báo cáo tài chính. Ban quản lý có thể gây hiểu lầm cho cả cổ đông và người đọc báo cáo tài chính báo cáo bằng cách điều chỉnh thu nhập và bằng cách nâng cao tầm quan trọng của thu nhập. Ngoài ra, ban quản lý có thể đánh lừa sự hiểu biết của cổ đông bằng cách tiết lộ thông tin bí mật hỗ trợ các mục tiêu tài chính cần thiết và do đó, tăng phần thưởng cho ban quản lý (Lee và Lue, 2015).

Do đó, quản trị lợi nhuận có thể ảnh hưởng đến tính kịp thời của báo cáo tài chính để đạt được các lợi ích cụ thể. Ban Giám đốc có thể đẩy nhanh việc công bố báo cáo tài chính để đạt được một số đặc quyền, chẳng hạn như việc định đoạt cổ phần đang nắm giữ. Ngược lại, Ban Giám đốc có thể chọn giảm tốc độ công bố báo cáo tài chính để trì hoãn một số tác động xấu của thu nhập.

Sự khác biệt về thời gian của các chiến lược là vấn đề cốt lõi. Khi REM được thực hiện trong năm, nó có thể ảnh hưởng đến FST vì các hoạt động thực tế không thể thay đổi sau khi kết thúc năm. Kết quả của REM đạt được sau khi kết thúc năm tài chính và những kết quả này cao hơn hoặc thấp hơn so với dự kiến ban đầu. Do đó, ban quản lý bị hạn chế thay đổi bất kỳ tác dụng không mong muốn nào của các hoạt động REM (Zang, 2012).

Điều này giải thích tại sao tác động của các hoạt động REM đối với FST được kiểm tra chặt chẽ. Nếu các hoạt động quản trị lợi nhuận được đo lường bằng các tác động thực tế, thì không thể kiểm tra tác động của FST đối với việc quản lý thu nhập vì ban giám đốc không thể điều chỉnh các hành động của họ sau khi kết thúc năm. Ngoài ra, việc phát hành báo cáo tài chính luôn xảy ra sau hoạt động quản trị lợi nhuận thực tế. Vì vậy, việc xem xét ảnh hưởng của REM đến FST có tầm quan trọng lớn.